Chú Hoả ( (1845 - 1901) là nhân vật thứ 4 trong câu nói "Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa" lừng lẫy một thời. Ông là đại gia giàu có của Sài Gòn xưa. Mặc dù xếp ở vị trí thứ 4 nhưng chú
Theo thuyết này của cụ Vương thì âm "Sài Gòn" là từ "Thầy Ngồn", "Thì Ngòn" mà ra. Tuy nhiên theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Qúy Đôn viết năm 1776 có dữ kiện "năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ lũy Sài Gòn"… Đây cũng là lần đầu tiên hai từ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam.
Vanvn- 22 chương trong cuốn sách "Mùa tiểu học cuối cùng" của nhà văn Lê Văn Nghĩa như những cuốn album ảnh ghi lại đời sống học trò Sài Gòn xưa một cách sống động, hóm hỉnh. Nhà văn Lê Văn Nghĩa (1953 - 2021) Chuyên đề Văn học thiếu nhi: >> Tiếng vọng ngày xanh - Truyện dài của Huỳnh Văn Quốc - Kỳ 2
Nhà hát xưa nhứt "Nhà hát thành phố Sài Gòn" 5. Khách sạn xưa nhứt Trong giai đoạn lịch sử mới, người Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới. Trương Vĩnh Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn hóa phương Tây đã trở
Nhưng chúng tôi chỉ ở Hà Nội một thời gian ngắn rồi vào Sài Gòn. 26. NGÔN NGỮ - Số 7. Nguyễn Đắc Điều: Có phải vì sợ Việt Minh trả thù nên các anh
Đa phần những người mình tiếp xúc đều là những người ở miền Nam hồi xưa nên khi nói chuyện với nhau đều gọi là Sài Gòn. Nói vậy mới hiểu nhau nhanh. Đó là một sự tự nhiên. Mặc dù về mặt hành
xgGhatG. Vấn đề ngôn ngữ là vấn đề của muôn thuở, không riêng gì của người Việt. Trong bài viết này, tôi muốn bàn về một thực trạng của tiếng Việt mà đã đến lúc, chúng ta không thể không suy nghĩ về nó một cách nghiêm túc. Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà người miền Nam Việt Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là tiếng Việt Sài Gòn cũ. Thứ tiếng Việt đó đang mất dần trong đời sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng chóng thì chầy, nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển, không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó đang chết dần ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước. Người Việt hải ngoại mang nó theo hành trình di tản của mình và sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong. Nếu người Việt hải ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại, nó cũng âm thầm chết theo. Nhìn tiếng Việt Sài Gòn cũ từ từ biến mất, lòng tôi bỗng gợn một nỗi cảm hoài. Điều tôi thấy, có lẽ nhiều người cũng thấy, thấy để mà thấy, không làm gì được. Sự ra đi của nó âm thầm giống như những dấu tích của nền văn hoá đệ nhất, đệ nhị cộng hoà VN vậy. Người ta không thể tìm ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Cổ Thành Quảng Trị, nghĩa trang Quận Đội, trường võ bị Thủ Đức, Tất cả đã thay đổi, bị phá huỷ hoặc biến đi như một sắp xếp của định mệnh hay một định luật của tạo đến tiếng Việt Sài Gòn cũ là nhắc tới miền Nam Việt Nam trước 1975. Vì cuộc đấu tranh ý thức hệ mà Nam, Bắc Việt Nam trước đó bị phân đôi. Sau ngày Việt Nam thống nhất năm 75, miền Nam thực sự bước vào sự thay đổi toàn diện. Thể chế chính trị thay đổi, kéo theo xã hội, đời sống, văn hoá và cùng với đó, ngôn ngữ cũng chịu chung một số phận. Miền Bắc thay đổi không kém gì miền Nam. Tiếng Việt miền Bắc đã chịu sự thâm nhập của một số ít ngữ vựng miền Nam. Ngược lại, miền Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp sự chi phối của ngôn ngữ miền Bắc trong mọi lãnh vực. Người dân miền Nam tập làm quen và dùng nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới. Những đề xuất, bồi dưỡng, kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con, xe con, to đùng, mặt bằng, phản ánh, bức xúc, tiêu dùng, tận dụng tốt, đánh cược, chỉ đạo, quyết sách, đạo cụ, quy phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao tốc, doanh số, đối tác, thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực công, nền công nghiệp âm nhạc, chùm ảnh, chùm thơ, nhà cao tầng, đáp án, phồn thực, sinh thực khí, từ vựng, hội chứng, phân phối, mục từ, kết từ, đại từ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, dà đã trở thành những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người dân miền Nam. Có những từ ngữ miền Nam và miền Bắc trước 75 đồng nghĩa và cách dùng giống nhau. Có những từ cùng nghĩa nhưng cách dùng khác nhau. Tỷ như chữ “quản lý” là trông nom, coi sóc. Miền Nam chỉ dùng từ này trong lãnh vực thương mại trong khi miền Bắc dùng rộng hơn trong cả lãnh vực cá nhân như một người con trai cầu hôn một người con gái bằng câu “Anh xin quản lý đời em”. Hoặc từ “chế độ” cũng vậy, miền Nam chỉ dùng trong môi trường chính trị như “chế độ dân chủ”. Miền Bắc dùng bao quát hơn trong nhiều lãnh vực như “chế độ xem”, “chế độ bao cấp”. Có những từ miền Bắc dùng đảo ngược lại như đơn giản – giản đơn; bảo đảm – đảm bảo; dãi dầu – dầu dãi; vùi dập – dập vùi. Song song với việc thống nhất đất nước, chính quyền Việt Nam đã thống nhất hoá tiếng Việt và gọi đó là “tiếng Việt toàn dân”. Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt. Bộ Giáo dục cũng thông qua một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục. Ngày 01/7/1983, Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được ban hành và áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục. Bảng chỉ dẫn sai chính tả trầm trọng. Khi tiếng Việt được thống nhất và chuẩn hoá, toàn quốc sử dụng chung một thứ ngôn ngữ theo một tiêu chuẩn, mẫu mực nhất định. Tiếng Việt Sài Gòn cũ, gồm những từ ngữ mà tiếng Việt miền Bắc đã có từ ngữ thay thế, sẽ bị quên đi hoặc bị đào thải. Những từ ngữ thông dụng cho cuộc chiến trước đó sẽ biến mất trước tiên. Những trực thăng, cộng quân, tác chiến, địa phương quân, thiết vận xa, xe nhà binh, lạnh cẳng, giới chứchữu trách, dứt điểm, phi tuần, chào bãi, tuyến phòng thủ, trái bộc pha, viễn thám, binh chủng, phi hành, gia binh, ấp chiến lược, nhân dân tự vệ, chiêu hồi, chiêu mộ, hầu như ít, thậm chí không được dùng trong hiện tại. Những từ ngữ thông dụng khác như ghi danh, đi xem đã bị thay thế bằng đăng ký, tham quan. Nhiều từ ngữ dần dần đã bước vào quên lãng nhưsổ gia đình, tờ khai gia đình, phản ảnh, đường rầy, cao ốc, bằng khoán nhà, tĩnh từ, đại danh từ, túc từ, giới từ, khảo thí, khán hộ, khao thưởng, hữu sự, khế ước, trước bạ, tư thục, biến cố, du ngoạn, ấn loát, làm phong phú, liên hợp, gá nghĩa, giáo học, giáo quy, hàm hồ, tráng lệ, thám thính, tư thất, chẩn bệnh, chi dụng, giới nghiêm, thiết quân luật, Ở hải ngoại, khi bắt đầu cầm bút, trong tâm thức một người lưu vong, viết, đối với tôi, là một động tác mở để vỡ ra một con đường Đường hoài hương. Nhiều người viết hải ngoại cũng tìm đến con đường về cố hương nhanh nhất này như tôi. Hơn nữa, để đối đầu với cơn chấn động văn hóa thường tạo nhiều áp lực, tôi xem viết như một phương pháp giải toả và trám đầy nỗi hụt hẫng, rỗng không của một người vừa ly dị với quê hương đất tổ sau một hôn phối dài. Tôi không bao giờ để ý đến việc mình viết cho ai, loại độc giả nào, trong hay ngoài nước, và họ có hiểu thứ ngôn ngữ mình đang dùng hay không vì lúc đó, chỉ có một vài tờ báo điện tử liên mạng mới bắt đầu xuất hiện ở hải ngoại. Sau này, nhờ kỹ thuật điện toán ngày một phát triển, cầu giao lưu giữa trong và ngoài nước được nối lại, độc giả trong và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc, thảo luận, đọc và viết cho nhau gần như trong gang tấc. Đó là lúc tôi được tiếp xúc với dòng văn học trong nước và làm quen với nhiều từ ngữ mới lạ chưa từng được nghe và dùng. Ngược lại, trong nước cũng vậy, số người lên mạng để đọc những gì được viết bởi người cầm bút ngoài nước cũng không ít. Thế hệ chúng tôi được người ta âu yếm gọi là thế hệ một rưỡi, thế hệ ba rọi hay nửa nạc nửa mỡ, cái gì cũng một nửa. Nửa trong nửa ngoài, nửa tây nửa ta, nửa nam nửa bắc, nửa nọ nửa kia, cái gì cũng một nửa. Cô giáo dạy tiếng Việt. Do đó, nhiều lúc tôi phân vân không biết mình nên dùng nửa nào để viết cho thích hợp nữa. Nửa của những từ ngữ Sài Gòn cũ hay nửa của tiếng Việt thông dụng trong nước? Mình có nên thay đổi lối viết không? Tôi nghĩ nhiều người viết hải ngoại cũng gặp khó khăn như tôi và cuối cùng, mỗi người có một lựa chọn riêng. Không chỉ trong lãnh vực văn chương, thi phú mà ở các lãnh vực phổ thông khác như giáo dục và truyền thông cũng va phải vấn đề gay go này. Việc sử dụng nhiều từ ngữ thông dụng của quốc nội ở hải ngoại đã gặp nhiều chống đối và tạo ra những cuộc tranh luận liên miên, dai dẳng. Các cơ quan truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình thường xuyên bị chỉ trích và phản đối khi họ sử dụng những từ trong nước bị coi là “chữ của Việt Cộng” và được yêu cầu không nên tiếp tục dùng. Nhất là ở Nam Cali, báo chí và giới truyền thông rất dễ bị chụp mũ “cộng sản” nếu không khéo léo trong việc đăng tải và sử dụng từ ngữ. Chiếc mũ vô hình này, một khi bị chụp, thì nạn nhân xem như bị cộng đồng tẩy chay mà đi vào tuyệt lộ, hết làm ăn vì địa bàn hoạt động chính là cộng đồng địa phương đó. Trong cuốn DVD chủ đề 30 năm viễn xứ của Thúy Nga Paris, chúng ta được xem nhiều hình ảnh cộng đồng người Việt hải ngoại cố gìn giữ bản sắc văn hoá Việt Nam bằng cách mở các lớp dạy Việt ngữ cho các con em. Khắp nơi trên thế giới, từ nơi ít người Việt định cư nhất cho tới nơi đông nhất như ở Mỹ, đều có trường dạy tiếng Việt. Riêng ở Nam California, Mỹ, hoạt động này đang có sự khởi sắc. Ngoài những trung tâm Việt ngữ đáng kể ở Little Saigon và San José, các nhà thờ và chùa chiền hầu hết đều mở lớp dạy Việt ngữ cho các em, không phân biệt tuổi tác và trình độ. Nhà thờ Việt Nam ở Cali của Mỹ thì rất nhiều, mỗi quận hạt, khu, xứ đều có một nhà thờ và có lớp dạy Việt ngữ. Chùa Việt Nam ở Cali bây giờ cũng không ít. Riêng vùng Westminster, Quận Cam, Cali, đi vài con đường lại có một ngôi chùa, có khi trên cùng một con đường mà người ta thấy có tới 3, 4 ngôi chùa khác nhau. Việc bảo tồn văn hoá Việt Nam được các vị hướng dẫn tôn giáo như linh mục, thượng tọa, ni sư nhắc nhở giáo dân, đại chúng mỗi ngày. Lớp học tiếng Việt càng ngày càng đông và việc học tiếng Việt đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng lưu vong. “Tại Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng, năm nay số học sinh nhập học tiếng Việt lên tới 700 em. Những thầy cô dạy tiếng Việt đều làm việc thiện nguyện hoàn toàn, đã hết lòng chỉ dạy cho các em, nhất là các em vừa vào lớp mẫu giáo tiếng Việt” trích Việt báo, Chủ nhật, 9/24/2006 Sách Giáo Khoa thời VNCH. Về vấn đề giáo trình thì mỗi nơi dạy theo một lối riêng, không thống nhất. Sách giáo khoa, có nơi soạn và in riêng để dạy hoặc đặt mua ở các trung tâm Việt ngữ. Còn ở đại học cũng có lớp dạy tiếng Việt cho sinh viên, sách thường được đặt mua ở Úc. Một giảng sư dạy tiếng Việt tâm sự với tôi “Khi nào gặp những từ ngữ trong nước thì mình tránh đi, không dùng hoặc dùng từ thông dụng của Sài gòn cũ trước 75 vì nếu dùng cha mẹ của sinh viên, học sinh biết được, phản đối hoặc kiện cáo, lúc ấy phải đổi sách thì phiền chết.” Sự dị ứng và khước từ việc sử dụng tiếng Việt trong nước của người Việt hải ngoại có thể đưa tiếng Việt ở hải ngoại đến tình trạng tự mình cô lập. Thêm nữa, với sự phát triển rầm rộ của kỹ thuật điện toán và thế giới liên mạng, báo chí, truyền thông của chính người Việt hải ngoại đến với mọi người quá dễ dàng và tiện lợi. Độc giả cứ lên mạng là đọc được tiếng Việt Sài Gòn cũ nên họ dường như không có nhu cầu tìm hiểu tiếng Việt trong nước. Kết quả là tiếng Việt trong và ngoài nước chê nhau!!! Việc người Việt hải ngoại chống đối và tẩy chay ngôn ngữ Việt Nam đang dùng ở trong nước có vài nguyên do Thứ nhất là do sự khác biệt của ý thức hệ. Những người Việt Nam lưu vong phần lớn là người tị nạn chính trị. Họ đã từ bỏ tất cả để ra đi chỉ vì không chấp nhận chế độ cộng sản nên từ chối dùng tiếng Việt trong nước là gián tiếp từ chối chế độ cộng sản. Thứ hai, sự khác biệt của từ ngữ được dùng trong cả hai lãnh vực ngữ nghĩa và ngữ pháp. Đây là một thí dụ điển hình. Trong cùng một bản tin được dịch từ một hãng thông tấn ngoại quốc, nhà báo ở trong nước và ngoài nước dịch thành hai văn bản khác nhau Trong nước Tàu ngầm hạt nhân Nga bốc cháy Interfax dẫn một nguồn tin Hải quân Nga cho hay ngọn lửa bắt nguồn từ phòng điện hóa và dụng cụ bảo vệ lò hạt nhân đã được kích hoạt, do đó không có đe dọa về nhiễm phóng xạ. Phát ngôn viên hạm đội này cho hay “Lửa bốc lên do chập điện ở hệ thống cấp năng lượng phần mũi tàu”. nước Hỏa hoạn trên tàu ngầm Nga Hải quân Nga nói rằng lò phản ứng hạt nhân trên tàu Daniil Moskovsky đã tự động đóng lại và không có nguy cơ phóng xạ xảy ra. Chiếc tàu đã được kéo về căn cứ Vidyayevo. Nguyên nhân hỏa hoạn có thể do chạm giây điện. Một người Việt hải ngoại khi đọc văn bản thứ nhất sẽ gặp những chữ lạ tai, không hiểu nghĩa rõ ràng vì sự khác biệt như những chữ phòng điện hoá, được kích hoạt, chập điện, hệ thống cấp năng lượng… Hơn thế nữa, Việt Nam mới bắt đầu mở cửa thông thương giao dịch với quốc tế; những từ ngữ mới về điện toán, kỹ thuật, y khoa, chính trị, kinh tế, xã hội, ồ ạt đổ vào. Có nhiều từ ngữ rất khó dịch sát nghĩa và thích hợp nên mạnh ai nấy dịch. Ngoài nước dịch hai ba kiểu, trong nước bốn năm kiểu khác nhau, người đọc cứ tha hồ mà đoán nghĩa. Có chữ thà để ở dạng nguyên bản, người đọc nhiều khi còn nhận ra và hiểu nghĩa nó nhanh hơn là phiên dịch. Trong việc phiên dịch, theo tôi, địa danh, đường phố, tên người nên giữ nguyên hơn là phiên dịch hay phiên âm. Nếu có thể, xin chú thích từ nguyên bản ngay bên cạnh hay đâu đó bên dưới bài viết sẽ giúp người đọc dễ theo dõi hay nhận biết mặt chữ. Tỷ như việc phiên âm các địa danh trên bản đồ trong sách giáo khoa của Bộ Giáo dục trong nước là việc đáng khen nhưng tôi nghĩ, nếu đặt từ nguyên thủy lên trên từ phiên âm thì các em học sinh chưa học tiếng Anh hoặc đã học tiếng Anh sẽ dễ nhận ra hơn. Xin lấy tỉ dụ là những địa điểm được ghi trên tấm bản đồ này. Tôi thấy một hai địa danh nghe rất lạ tai như Cu dơ Bây, Ben dơ mà không biết tiếng Mỹ nó là cái gì, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới tìm ra đó là hai địa danh Coos Bay và Bend ở tiểu bang Oregon, nước Mỹ! Tiếng Việt xuống hàng không đúng cách sẽ ra ý khác. Ngôn ngữ chuyển động, từ ngữ mới được sinh ra, từ cũ sẽ mất đi như sự đào thải của định luật cung cầu. Tiếng Việt Sài Gòn cũ ở trong nước thì chết dần chết mòn; ở ngoài nước, nếu không được sử dụng hay chuyển động để phát sinh từ mới và cập nhật hoá, nó sẽ bị lỗi thời và không còn thích ứng trong hoạt động giao tiếp nữa. Dần dà, nó sẽ bị thay thế bằng tiếng Việt trong nước. Nhất là trong những năm gần đây, sự chống đối việc sử dụng tiếng Việt trong nước ngày càng giảm vì sự giao lưu văn hoá đã xảy ra khiến người ta quen dần với những gì người ta đã phản đối ngày xưa. Tạp chí, sách, báo đã đăng tải và phổ biến các bản tin cũng như những văn bản trong nước. Người ta tìm được nhiều tài liệu, ấn phẩm, sách nhạc quốc nội được bày bán trong các tiệm sách. Các đài truyền thanh phỏng vấn, đối thoại với những nhà văn, nhà báo, chính trị gia và thường dân trong nước thường xuyên. Đặc biệt, giới ca sĩ, nhiều người nổi tiếng ra hải ngoại lưu diễn, đi đi về về như cơm bữa. Giới truyền thông bây giờ sử dụng từ ngữ trong nước rất nhiều, có người mặc cho thiên hạ chỉ trích, không còn ngại ngùng gì khi dùng từ nữa. Khán thính giả có khó chịu và chê trách, họ chỉ giải thích là thói quen đã ăn vào trong máu rồi, không chịu thì phải ráng mà chịu. Sự ra đi của một chế độ kéo theo nhiều thứ con người, tài sản, nhà cửa, vườn tược, lịch sử… nhưng có cái bị lôi theo mà người ta không ngờ nhất lại là “cái chết của một ngôn ngữ”. Đau lòng lắm thay!
Sang đến thời kỳ “một trăm năm đô hộ giặc Tây”. Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng đã trở thành thuộc địa của Pháp. Cũng vì thế, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội của người Việt. Tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ Bảo hộ và trong giảng dạy ở nhà trường, bên cạnh đó là các loại sách báo thâm nhập đời sống thường ngày của người dân. Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651, với mục đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt. “Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp. Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này. Linh mục Alexandre de Rhodes. Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juliet. Người ta có thể dùng tiếng Tây “bồi” nhưng lại không cảm thấy xấu hổ vì vốn liếng tiếng Pháp của mình vốn chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Để tả con cọp, người ta có thể dài dòng văn tự “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng jaune, một chút màu đen noir, nó ăn thịt ông monsieur, nó ăn thịt cả tôi moi. Nhân đây cũng xin nói thêm về những đại danh từ nhân xưng như toa anh, mày – toi, moa hay mỏa tôi, tao – moi, en hay ẻn cô ấy, chị ấy – elle, lúy hay lủy anh ấy, hắn – lui, xừ hay me-xừ ông, ngài – monsieur… Học trò trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những kẻ tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng vì thế có một câu mang tính cách châm chọc “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải… trên đầu toa” toa ở đây có 2 nghĩa toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi anh trong tiếng Pháp. Nói thêm về hỏa xa, người Pháp xây dựng đường xe lửa đầu tiên ở Việt Nam tại Sài Gòn từ năm 1881. Đây là đoạn đường ray rail từ Cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn, dài 13km. Mãi đến năm 1885 chuyến xe lửa đầu tiên mới được khởi hành và một năm sau, tuyến đường Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71km bắt đầu hoạt động. Sau đó, mạng lưới đường sắt được xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam, dùng kỹ thuật của Pháp với khổ đường ray 1 mét. Tính đến năm 1975 miền Nam có khoảng đường ray nhưng vì chiến cuộc nên chỉ được sử dụng khoảng 60%. Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép… Nhân nói về ga tưởng cũng nên nhắc lại động từ bẻ ghi aiguiller tức là điều khiển ghi aiguille cho xe lửa chuyển sang đường khác. Trong tiếng Việt, bẻ ghi còn có nghĩa bóng là thay đổi đề tài, chuyển từ chuyện mình không thích sang một đề tài khác. Xe lửa ngày xưa. Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng vì lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su caoutchouc, một loại cây công nghiệp được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền tại miền Nam. Ngôn ngữ tiếng Việt rất linh động trong cách dùng từ ngữ cao su qua các biến thể như giờ cao su giờ giấc co dãn, không đúng giờ, kẹo cao su chewing-gum… Nhà băng banque là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày còn xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon. Ở miền Bắc, xà bông được cải biên thành xà phòng, là chất dùng để giặt rửa, chế tạo bằng cách cho một chất kiềm tác dụng với một chất béo. Nổi tiếng ở Sài Gòn xưa có xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền, dùng dầu dừa làm nguyên liệu chính. Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lãnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy thực đơn – menu trong đó có những món như bít-tết chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak, những thức uống như bia rượu bia – bière, được chế biến từ cây hốt bố hay còn gọi là hoa bia – houblon, rượu vang rượu nho – vin… Về thịt thì có xúc-xích saucisse, pa-tê paté, giăm-bông jambon, thịt phi-lê thịt thăn, thịt lườn – filet. Các món ăn thì có ra-gu ragout, cà-ri curry… Khi ăn xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa tiền thưởng – pourboire. Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ. Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét loại bánh mì nhỏ, dài – baguette, bánh pa-tê-sô một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon – pathé chaud, bánh croát-xăng hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant. Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat, trứng ốp-lết trứng tráng – omelette hoặc trứng la-cóc trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque. Bánh “pathé chaud”. Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê café. Cà phê phải được lọc từ cái phin filtre à café mới đúng điệu. Người miền Bắc ít uống cà phê nên sau năm 1975 vào Sài Gòn nhiều người đã mô tả cái phin cà phê một cách rất “gợi hình” “cái nồi ngồi trên cái cốc”. Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi chemise, cổ tay có cài khuy măng-sét manchette. Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo vét vest hay bộ vét-tông veston kèm theo chiếc cà-vạt cravate trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc gi-lê gilet và hai tay mang găng gants cho ấm. Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ thì mang xú-chiêng nịt ngực – soutien-gorge và xì-líp slip. Nam giới thì mặc áo may-ô maillot bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya dây nịt – ceinture và khi trời nóng thì mặc quần sóc quần ngắn, tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts. Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông vải bông – coton hoặc bằng len làm từ lông cừu – laine. Trên đầu có mũ phớt feutre, một loại mũ dạ, mũ be-rê béret, một loại mũ nồi… dưới chân là đôi dép săng-đan sandales, sau này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa-bô sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc. Mũ phớt. Đi lính cho Tây thì được phát đôi giày săng-đá giày của lính – soldat. Loại lính nhảy dù, biệt kích ngày nay là đặc công gọi là còm-măng-đô commando. Một đoàn xe quân sự có hộ tống được gọi là công-voa convoi, trông cứ như con voi trong tiếng Việt!. Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông. Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên mã-tà xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui, sen đầm gendarme, phú-lít police, ông cò commissaire… Lực lượng thuế quan ngày nay gọi là hải quan được gọi là đoan douane, lính đoan còn có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp thuộc. Nông phẩm thì có đậu cô-ve còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert, đậu pơ-tí-poa đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois, bắp sú bắp cải – chou, súp-lơ bông cải – chou-fleur, xà lách salade, cải xoong còn gọi là xà lách xoong – cresson, cà-rốt carotte, ác-ti-sô artichaut… Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano dương cầm, violon vĩ cầm, kèn harmonica khẩu cầm… Ở các đăng-xinh khiêu vũ trường – dancing luôn có ọc-két ban nhạc – orchestre chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve gái nhẩy – cavalière. Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó. Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ beurre, pho-mát fromage, kem crème… Nổi tiếng ở Sài Gòn có hai nhãn hiệu sữa Ông Thọ Longevity và Con Chim Nestlé như đã nói ở phần trên. Có người cắc cớ thắc mắc, đàn ông mà lại là ông già thì làm sao có sữa? Xin thưa, hình tượng “Ông Thọ chống gậy” trên hộp sữa chỉ muốn nói lên tuổi thọ longévité của người dùng sữa. Trường hợp của Nestlé cũng vậy. Con Chim thì làm gì có sữa? Thực ra thì logo của Nestlé là một tổ chim gồm chim mẹ và 2 chim con nhưng người Việt mình cứ gọi là sữa Con Chim cho tiện. Logo của Nestlé. Thế mạnh của Nestlé là các sản phẩm sữa bò khác như Núi Trắng Lait Mont-Blanc và sữa bột Guigoz. Ngày xưa, những gia đình trung lưu đều nuôi con bằng sữa bột Guigoz. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi ăn vụng một thìa Guigoz của em út vừa bùi, vừa béo, những hạt sữa nhỏ ly ty như tan ngay trong miệng. Sữa bột Guigoz được chứa trong một cái lon bằng nhôm, cao 15cm, có sọc ngang, bên trong lại có sẵn thìa để giúp người pha dễ đo lường. Khi dùng hết bột, các bà nội trợ không vứt lon như những loại sữa khác vì lon Guigoz có nắp đậy rất kín nên được “tái sử dụng” trong việc đựng đường, muối, tiêu, bột ngọt… Những người thiết kế lon Guigoz chắc hẳn chưa bao giờ nghĩ cái lon lại có nhiều công dụng sau khi sữa bột ở bên trong đã dùng hết. Lon Guigoz đã theo chân những tù nhân cải tạo như một vật “bất ly thân”. Những người “tưởng đi học có 10 ngày” mang theo lon Guigoz để đựng các vật dụng linh tinh như bàn chải, kem đánh răng, vài loại thuốc cảm cúm, nhức đầu để phòng khi cần đến. Lon Guigoz. Lon Guigoz thường được chúng tôi gọi tắt là “lon gô”. Học tập càng lâu lon gô càng tỏ ra “đa năng, đa hiệu”. Muốn múc nước từ giếng lên thì dùng gô làm gàu, buổi sáng thức dậy dùng gô làm ly đựng nước súc miệng, nhưng gô còn tỏ ra đặc biệt hữu ích khi dùng như một cái nồi để nấu nước, thổi cơm, luộc măng lấy ở trên rừng, luộc rau, luộc khoai mỳ “chôm chỉa” khi đi “tăng gia sản xuất”… nghĩa là làm được tất cả mọi công việc bếp núc. Chúng tôi ở trong một căn cứ cũ của Sư đoàn 25 tại Trảng Lớn Tây Ninh nên có cái may là còn rất nhiều vỏ đạn 105 ly. Người cải tạo săn nhặt những vỏ đạn về và chế thành một cái lò “dã chiến” và lon gô để vào trong lò vừa khít, tưởng như 2 nhà thiết kế vỏ đạn và lon gô đã ăn ý với nhau “từng centimét” ngay từ khâu thiết kế ban đầu! Ai chưa có lon gô thì nhắn gia đình tìm để đựng đồ ăn mỗi khi được vào trại “thăm nuôi”. Sau 30/4/75 lon gô trở nên hữu dụng vì công nhân, sinh viên, học sinh dùng lon gô để đựng cơm và thức ăn cho bữa trưa. Người Sài Gòn thường đeo một cái túi đựng lon gô khi đi làm, một hình ảnh không thể nào quên của “thời điêu linh” sau 1975. Tình cờ tôi bắt gặp trang web của Pháp quảng cáo bán lon sữa Guigoz cho những người sưu tầm, giá lên tới 15 euro cho một lon Guigoz xưa, dĩ nhiên là chỉ có lon không, không có sữa! Lon Guigoz. Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô xe hơi – auto, automobile. Xe xưa thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven manivelle đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ khởi động – démarreur. Sau khi đề demarrer, xe sẽ nổ máy, sốp-phơ người lái xe – chauffeur sẽ cầm lấy vô-lăng bánh lái – volant để điều khiển xe… Về cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê chìa vặn – clé, mỏ-lết molete, đinh vít vis, tuốc-nơ-vít cái vặn vít – tournevis, công-tơ thiết bị đồng hồ – compteur, công tắc cầu dao – contact… Bây giờ nói qua chuyện xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông thanh tay lái – guidon, dưới chân có pê-đan bàn đạp – pedale, săm ruột bánh xe – chambre à air và phía sau là bọc-ba-ga để chở hàng hóa – porte-bagages. Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… Tây rặc. Có dây sên dây xích – chaine, có líp bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre, rồi phanh thắng – frein ở cả bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ như gạc-đờ-bu thanh chắn bùn – garde-boue và gạc-đờ-sên thanh che dây xích – garde-chaine. Xe đạp Mercier ngày xưa có gắn ống bơm, dynamo và cả lon Guigoz. Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm pompe để phòng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm. Tôi còn nhớ khi tháo tung một cái dynamo cũ thấy có một cục man châm gắn vào một trục để khi trục quay sẽ sinh ra điện. Hồi xửa hồi xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn! Sài Gòn xưa có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling… Đó là những chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn xưa. Nguyễn Ngọc Chính Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết cùng tên Đăng trên diễn đàn Hội quán Phi Dũng
Bài này nhằm để ghi nhớ lại những từ mà ngày xưa người Sài Gòn/Miền Nam hay dùng, như Mèn ơi, Nԍнᴇɴ, Hén, Hen, Tà Tà, Thềm ba, Cà rịch cà tang, tàn tàn,…, và những câu thường dùng như Kêu gì như kêu đò Thủ Thiêm, làm nư, cứng đầu cứng cổ, tháng mười mưa thúi đất, cái thằng trời đánh thánh đâm… Xin nhờ bạn đọc comment thêm những từ nào còn nhớ để có thể góp nhặt ngỏ hầu lưu lại những tiếng gọi, câu nói thân thương của người Sài Gòn và miền Nam trước đây, e rằng một ngày nào đó nó sẽ mai một… Giọng nói, sự pha trộn của ngôn ngữ miền Bắc ᴅι cư vào những năm 1950 hòa cùng ngôn ngữ Sài Gòn, miền Tây đã tạo nên thêm một phong cách, giai điệu mới… Và bài hát “Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ” của nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên là hình ảnh cô gái chạy xe chậm rãi tỏ ra bất cần mấy anh chàng theo sau năи nỉ làm quen, không biết đã bao nhiêu lần làm bâng khuâng xao xuyến lòng người nghe. Nhất là cái giọng người Bắc khi vào Nam đã thay đổi nó nhẹ nhàng, ngang ngang như giọng miền Nam thì tiếng lóng miền Nam càng phát triển. Dễ nghe thấy, người Bắc nhập cư nói từ “Xạo ke” dễ hơn là nói “Ba xạo”, cнíɴн điều dó đã làm tăиg thêm một số từ mới phù hợp với chất giọng hơn. Chất giọng đó rất dễ nhận diện qua những MC như Nam Lộc, Nguyễn Ngọc Ngạn mà các chúng đã từng nghe trên các video chương trình Ca nhạc, kể chuyện,… Đặc biệt trong dịch thuật, nếu không am hiểu văи nói của Sài Gòn miền Nam, nếu dùng google dịch thì câu “qua biểu hổng qua qua qua đây cũng dzậy” câu gốc Hôm qua qua nói qua qua mà qua hỏng qua, hôm nay qua nói qua hỏng qua mà qua qua, google nó dịch ra như vầy “through through through through this gaping expression too”. Ông Tây đọc hiểu được ý thì chịu cнếт… Hay như câu “giỏi dữ hôn” thì google dịch cũng ngất ngư con lạc đà… Trong văи nói, người Miền Nam hay dùng điệp từ cùng nguyên âm, hay phụ âm, hoặc dùng hình tượng một con vật đễ tăиg cấp độ nhấn mạnh như bá ʟáp bá xàm, cà chớn cà cháo, sai bét bèng beng từ bèng beng không có nghĩa,… sai đứt đuôi con nòng nọc,… chắc là phải cả pho sách mới ghi lại hết… Ai người miền Nam thì cũng hiểu câu này “thôi tao chạy trước tụi bây ở lại chơi vui hén” , ở đây chạy cũng có nghĩa là đi về, chứ không phải là động từ “chạy = to run” như tiếng Anh. Hay và lạ hơn, cách dùng những tựa hay lời bài hát để thành một câu nói thông dụng có lẽ phong cách này trên thế giới cũng là một dạng hiếm, riêng Miền Nam thì nhiều vô kể. Thí dụ Khi nghe ai nói chuyện lặp đi lặp lại mà không chán thì người nghe ca một đoạn “Nhắc chi chuyện cũ thêm đαυ lòng lắm người ơi!”, hoặc khi sắp chia tay thì lại hỏi “Đêm nay ai đưa em về!”. Người ngoại quốc ai không biết cứ tưởng là người đó đang ca chứ hổng phải đang hỏi mình, như khi nghe ai nói chuyện mà chuyện này ai cũng biết rồi thì lại nói “Xưa rồi Diễm…” với cái giọng mà âm “…i…ễ…m…” kéo dài tha thướt. Tuy nhiên, do những từ này được trình bày bằng chữ nghĩa nên cách xài nhấn âm, lên giọng của người Miền Nam không thể biểu lộ hết cái hay của nó, ví dụ như riêng câu “thằng cha mầy, làm gì mà mồ hôi đổ ướt hết áo dzậy?”. Cụm từ “thằng cha mầy” kéo dài hơi lại có nghĩa là gọi yêu thương chứ không phải la mắng, tương tự khi mấy cô gái nguýt nói “Xí! Hổng chịu đâu”, ”Xí! Cha già dịch nè!”, ”Sức mấy!”, “Ông nói gì tui ưa hổng иổi nha!”, “Cha già khó ưa! ” với cách nhấn giọng thì nghe rất dễ thương và dịu dàng nhưng khó gần lắm à nԍнᴇɴ. Nhưng đến khi nghe câu ”Tui nói lần cuối, tui hổng giỡn chơi với Ông nữa đâu đó nԍнᴇɴ!” thì coi chừng… liệu нồn đó. Thật ra không phải người Sài Gòn ai cũng xài hết mấy từ này, chỉ có người bình dân mới dám xài từ như “Mả cha, Tổ mẹ” để kèm theo câu nói mà thôi. Dân nhà trí thức ít ai được ba má cho nói, nói ra là vả miệng không kịp ngáp luôn, giáo dục ngày xưa trong gia đình rất là khó, nhất là mấy người làm bên nghề giáo dạy con càng khó dữ nữa. Ra đường nghe mấy đứa con nít nói “DM” thậm chí còn không hiểu nó nói gì, về nhà hỏi lại chữ đó là gì, chưa gì đã bị cấm tiệt không được bắt chước, lúc đó chỉ nghe Ba Má trả lời “Đó là nói bậy không được bắt chước đó nԍнᴇɴ!” Chưa kể tới chuyện người lớn đang ngồi nói chuyện mà chạy vô xầm xập hỏi thì cũng bị la rầy liền “Chỗ người lớn nói chuyện không được chen vô nhớ chưa?” Đến năm 1980 thì giáo dục cũng khác hẳn ngôn ngữ bắt đầu đảo lộn ở cấp tiểu học… tiếng Sài Gòn dần dần bị thay đổi, đến nay trên các chương trình Game Show chỉ còn nghe giọng miền Nam với câu nói “Mời anh trả lời ạ”, “Các bạn có thấy đúng không ạ”, ạ… ạ… ạ… cái gì cũng ạ… làm tui thấy lạ. Thêm nữa, bây giờ mà xem phim Việt Nam thì hình như không còn dùng những từ ngữ này, khi kịch bản phim, hay tiểu thuyết đặt bối cảnh vào thời điểm xưa mà dùng ngôn ngữ hiện đại lồng vào, coi phim nghe thấy nó lạ lạ làm sao đâu á… Tò te tí te chút, mong rằng các bạn khi đọc những từ này sẽ нồi tưởng lại âm hưởng của Sài Gòn một trời thương nhớ! Trân trọng, Tác giả Nguyễn Cao Trường A-ma-tưaơ = hổng chuyên nghiệp gốc Pháp amateur À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăи cấm không chơi nữa à nha Áng chừng, đâu chừng, hổng chừng, dễ chừng = dự đoán từ đây qua kia áng chừng 500 thước – Đâu chừng thằng Sáu chiều nay nó dìa tới đó bây Anh em cột chèo Áo ca-rô = áo kẻ ô bắc Áo thun ba ʟá = Áo thun ba lổ, Áo May Ô bắc gốc Pháp maillot Áp-phe = trúng mánh, vô mánh chạy áp-phe vớt cú chót kiếm tiền! gốc tiếng Pháp affaires Áp-phê = hiệu ứng, hiệu quả billard để hết áp-phê bên trái chúi đầu cơ xuống kéo nhẹ là nó qua liền hà Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng Ăn cộc đi con = ăи nhiều dô Gò Công Ăn hàng = ăи uống, đi ăи cái gì nhẹ như chè, chứ không phải ăи cơm trưa-chiều. Thường chỉ có con gái mới dám đi ăи hàng, нồi xưa con trai không dám đi ăи hàng vì bị chọc thì mắc cở lắm, thêm nữa, gia đình giáo dục con trai khác với con gái, thường Ông Bà Bô hay nói “con trai phải ra con trai nԍнᴇɴ, ai đời con trai mà ăи hàng như con gái”. Con gái mà đi ăи hàng nhiều cũng bị la rầy. sau này mấy tay trộm cướp cũng xài từ “ăи hàng”, tức là đi giựt dọc, cướp bóc từ sau 1975 Âm binh = Cô нồn, các đảng, phá phách mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách Bà chằn lửa = người dữ dằn dữ như bà chằn Bá chấy, bá phát = quá xá – Ngon bá chấy bò chét chó! Là ngon quá trời đất luôn! Ba ke, Ba xạo = xạo – sau này 1975 có thêm chữ ba đía rồi bớt dần thành đía đừng có đía = đừng có nói xạo Ba lăm = 35 = già dê dê 35 Ba lơn = tính hay đùa cợt, chòng ghẹo người khác nhưng không gây нạι, hoặc có chủ đích нạι người Bá Láp Bá Xàm = Tầm xàm – Bá ʟáp Bà tám = nhiều chuyện thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa Ba Tăиg = Bảo kê gốc Pháp patente Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường Bành ki = bự Banh ta lông = như hết chuyện gốc từ cái talon của vỏ xe Bảnh tỏn, Sáu bảnh = đẹp ra dáng mặt đồ vô thấy bảnh tỏn ghê nha Banh xà lỏn Bạt мạиɢ = bất cần, không nghĩ tới hậu quả ăи chơi bạt мạиɢ Băиg = nhà băиg, ngân hàng gốc Pháp banque Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi Bắt kế là do PƠRKAI KUDA mà ra, Pơkai = Thắng vào xe, Kuda = Con ngựa. Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn Bất thình lình = đột ngột, Bất тử Bầy hầy = bê bối, ở dơ Bẹo = chưng ra, Bệu gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ иổi ngày xưa Bẹo gan = chọc cho ai иổi điên, ứa gan Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể Bển = bên đó, bên ấy tụi nó đang chờ con bên bển đó! Bí lù = không biết đường trả lời, không biết Bí xị = buồn Biết đâu nà, biết đâu nè, = biết đâu đấy Biết sao hôn! Biệt tung biệt tích, biệt tăm biệt tích, mất tích, mất tiêu, đâu mất = không có mặt, mất dấu Biểu ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng = bảo, nhưng câu “ai biểu” thì lại có hàm ý người kia “tự làm thì tự chịu” Bình thủy = phích nước Bình-dân = bình thường Bít bùng Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình Bỏ thí = bỏ Bồ = gọi bạn thân thiết Ê chiều nay bồ rãnh tạt qua nhà chở tui đi luôn nԍнᴇɴ Bồ đá = bị bạn gái bỏ Bội phần, muôn phần = gấp nhiều lần Bồn binh = Bùng binh, vòng xoay nay Buồn xo, buồn hiu = rất buồn làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy? Buột = cột Bữa = buổi/từ đó tới nay ăи bữa cơm rồi về / bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi? Cà chớn cà cháo = không ra gì Cà chớn chống xâm lăиg. Cù lần ra khói lửa. một câu nói trong thời cнιếɴ Cà giựt = lăиg xăиg, lộn xộn Cà kê dê ngỗng = dài dòng, nhiều chuyện Cà lăm = nói lắp Cà Na Xí Muội = chuyện không đâu vào đâu Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang Cà nhõng = rãnh rỗi không việc gì để làm đi cà nhõng tối ngày, có khi gọi là nhõng nhõng Cà lơ phất phơ Cà rem = kem Cà rề, Cà rịt cà tang = chậm chạp Cà rịch cà tàng Cà rởn = giởn chơi cho vui, ngoài ra cũng có nghĩa như ba lơn Cà tàng = bình thường, quê mùa,…. Cà tong cà teo = ốm, gầy yếu Cà tưng cà тửng Cái thằng trời đánh thánh đâm Càm ràm = nói тùm lum không đâu vào đâu/nói nhây Cạn tàu ráo máng; ăи cháo đá bát = vô ơn Càng quấy = phá phách hư hỏng Cạo đầu khô Cảo = kéo, rít cảo điếu тнuốc gần tới đót Cảo Dược= làm cho thẳng Có chi hông? = có chuyện gì không? Coi = thử; liền vd Nói nghe coi? Làm coi Coi bộ ngon ăи, ngon ăи đó nԍнᴇɴ = chuyện dễ ăи không liên quan tới ngon dỡ – chuyện này làm coi bộ ngon ăи đó nԍнᴇɴ! Coi được hông? Còn ai trồng khoai đất này = cнíɴн là tôi, “tôi đây chớ ai” Còn khuya = còn lâu uh! mày ngon nhào vô kiếm ăи, còn khuya tao mới sợ mày! Con ở = người ở, nay Oshin từ tựa đề bộ phim của Nhật Cô нồn, các đảng Công тử bột = nhìn có dáng vẻ thư sinh yếu đuối- Xem thêm Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh… thằng này cù lần quá! Cua gái = tán gái Cụng = chạm Cuốc = chạy xe tui mới làm một cuốc từ Hocmon dzia Sài Gòn cũng được trăm hai bỏ túi! Cưng = cách gọi trìu mến “Cưng” dân Trảng bàng nè! Trên cưng ”dẫn” ”sài” ”dậy” hà Cứng đầu cứng cổ Chả = Cha đó Chà bá , tổ chảng, chà bá lữa = to lớn, bự Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi!” Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông? Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi! Cháy túi = hết tiền Chạy, Dọt, Chẩu = đôi khi cũng có nghĩa là đi về thôi tụi bây ở chơi tao chạy dọt trước à! Chẩu 走 nguyên gốc âm lấy từ tiếng Quảng Đông Chạy te te = chạy một nước – Con nhỏ vừa nghe Bà Hai kêu ra coi mắt thì nó xách đích chạy te te ra đằng sau trốn mất tiêu rồi Chạy tẹt ga, đạp hết ga= kéo hết ga, hết sức – cũng có nghĩa là chơi thoải mái – “mày cứ chơi “tẹt ga” mát trời ông địa đi, đừng có sợ gì hết, có gì tao lo” ga = tay ga của xe Chạy u đi Chạy vắt giò lên cổ, Chạy sút quần, Chạy đứng tóc = chạy không kịp thở Chằn ăи trăи quấn = dữ dằn Chăm bẳm = tập trung dòm cái gì mà dòm chi chăm bẳm vậy? Chậm lụt = chậm chạp, khờ Chận họng = không cho người khác nói hết lời Chém vè dè= trốn trốn cuộc hẹn trước Chén = bát Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên Chèo queo = một mình làm gì buồn nằm chèo queo một mình dậy? Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không Chì = giỏi anh ấy học “chì” lắm đó. Chiên = rán Chình ình, chần dần = ngay trước mặt Nghe tiếng gọi thằng Tư quay đầu qua thì đã thấy tui chình ình trước mặt Chịu = thích, ưa, đồng ý Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn Chỏ mũi, chỏ mỏ= xía, xen vào chuyện người khác Chói lọi = chói sáng Chỏng mông = mệt bở hơi tai làm chỏng mông luôn đây nè Chỗ làm, Sở làm = hãng xưỡng, cơ quan côɴԍ tác Chột dạ = nghe ai nói trúng cái gì mình muốn dấu Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chỗ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chỗ dậy? Chưn = chân Chưng hững = ngạc nhiên Chưng ra = trưng bày Dạ, Ừa ừa / ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng = Vâng, Ạ Dạo này = thường / nhiều ngày trước đây đến nay Dạo này hay đi trễ lắm nԍнᴇɴ! / thường Dấm da dấm dẵng Dân chơi cầu ba cẳng = dân ԍιᴀɴԍ нồ – cũng có nghĩa khác là chịu chơi nữa nhìn mày giống dân chơi cầu ba cẳng quá Dây, không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó Dè chừng = coi chừng Tui lỡ nói lớn chút ai dè nó nghe được, chứ thiệt tình tui đâu có muốn Dễ tào = dễ sợ Dì ghẻ = mẹ kế Dị hợm = quái dị, không giống ai – Dĩa = Đĩa Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh chữ diễu bây giờ dùng không cнíɴн xác, thật ra là “diễn” mới đúng Diễu dỡ =? Dọt lẹ Dô diên vô ᴅuyên = không có ᴅuyên Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’ chỉ để tăиg mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi Dù = Ô Du ngoạn = tham quan Dục vụt đi = vất bỏ đi giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng” Dùng dằng = ương bướng Dữ đa, Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răи đe trách móc nhẹ nhàng тùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ “Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răи đe nặng hơn Dữ đa thường dùng cuối câu ” cái này coi bộ khó kiếm dữ đa” Dzìa, dề = về thôi dzìa nԍнᴇɴ- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào тùy ngữ điệu lên xuống người nói Dừa dừa vừa thôi nhen = đừng làm quá Đá cá lăи dưa = lưu manh Đa đi hia = đi chỗ khác. Đã nha! = Sướng nha! Đài phát thanh = đài tiếng nói Đánh dây thép = gữi điện tín Đàng = đường Đi một đàng học một sàn khôn Đánh đàn đánh đọ = Đánh đàn học thì lo học không “đánh đàn đánh đọ” nhe hông một cách để chê việc đánh đàn bằng cách ghép thêm hai từ ʟáy đánh đọ phía sau. Đánh тù xầm, Quảnh тù xì = oẳn тù tì trò chơi bằng tay ra kéo, búa, bao gốc từ tiếng Anh one two three Đâm ra = thành ra Đào hát = nữ diễn viên cải lương, Tài тử cải lương = nam Đặng = được Qua tính vậy em coi có đặng hông? Đầu đường xó chợ Đen như chà dà và = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen Đẹp trai con bà Hai = đẹp Đế = chen thêm đang nói nó đế vô một câu chận họng làm tui câm luôn Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về một cách hỏi – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của NA9 Đi bang bang = đi nghênh ngang Đi bụi Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí Đi mần = đi làm Đồ bỏ đi = đồ hết xài người gì xài hổng dô, đúng là đồ bỏ đi mà Đồ già dịch = chê người mất nết тùy ngữ cảnh và cách nhấn âm, kéo dài thì sẽ có hàm ý khác Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo Đờn = đàn Đùm xe = Mai-ơ Đực rựa = đàn ông, con trai Đừng có mơ, đừng có hòng Được hem hôn/hơm? = được không? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm Gác dan = bảo vệ, người gác cổng gốc Pháp gardien Gần xịt = thiệt là gần Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê Ghét = тùy cách nhấn giọng và kéo dài thì …. ghét chưa chắc đã ghét mà chỉ là câu nói thể hiện thương, hay chấp nhận nữa hổng chừng. Ngó nó mà thấy ghét ghê ê ê ê! ghét thương chớ нồng phải NHÌN giọng Bắc thấy ghét. Dòm cái bản mặt nó mà phát ghét ghét thiệt Ghê = rất – hay ghê há тùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê Ghệ linh = em đẹp Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích Già dịch = Già dê Già háp = già khằn, già cú đế Giục ԍιặc, hục hặc = đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau hai đứa nó đang hục hặc Ghi-đông, Bọt-ba-ga guidon, porte-bagages Hãng, Sở = côɴԍ ty, xí nghiệp Hay như = hoặc là Hầm = nóng trời hầm quá ngồi không mà người nó đổ mồ hôi ướt nhẹp Hầm bà lằng gốc tiếng Quảng Đông Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn Héo queo = xụi lơ, bi xị Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh chưa làm gì hết Hết trơn hết trọi = chẳng, không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn hết trọi á! Hôi mợi= thôi mày ơi Hồi nảo нồi nào = xưa ơi là xưa Hồi nẳm = lâu lắm rồi không nhớ ngày tháng hổm bữa = hôm trước Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay Hổng có chi! = không sao đâu Hổng chịu đâu Hổng thích à nhen! Hổng xi nhê = không ăи thua, không có ý nghĩa gì hết , Kiếm nhiêu đây tiền đâu có xi nhê gì gốc Pháp signifier Hột = hạt hột đậu đen, đỏ miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài Hờm = chờ sẵn tui hờm sẵn rồi chỉ chờ thằng kia nó chạy ra là tui cho nó một đá cho nó lăи cù mèo luôn Hợp gu = cùng sở thích goût Hớt hơ hớt hãi = hấp tấp và sợ hãi nó hớt hơ hớt hãi chạy vào báo tin Hú нồn hú vía Kẻo = coi chừng Trời ui ui! giờ không đi sớm kẻo trời nó mưa là ướt chèm nhẹp luôn đó nhe Kể cho nghe nè! = nói cho nghe Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời,… xem thêm bài kêu đò Thủ Thiêm Kêu giựt ngược = kêu gấp bắt buột người khác phải làm theo ý mình kêu cái gì mà kêu như giựt ngược người ta hà! Kinh thiên động địa Khán thính giả người xem kịch, cải lương, truyền hình,… trong đó Khán 看 xem – Thính 聽 nghe, giả 者 = người, tổng hợp lại là người nghe nhìn, giờ thì kêu ngắn gọn là khán giả chỉ biết xem mà không nghe được, đỡ cãi Khính = ké – mặc đồ khính, đi ăи khính,… Khỉ đột Khỉ gió Khỉ khô Khó ưa = chê nhưng có lúc lại là khen. Mặt thằng nhỏ khó ưa quá hà! Khoái tỉ = thích gần cнếт Không thèm = không cần Làm gì dữ dạ tui đâu có thèm đâu mà bày đặt nhữ qua nhữ lại trước mặt tui? Lâu lắc= chậm trễ, trễ nãi hàm ý trách móc Kêu hoài sao ko mở cửa, làm gì trong trỏng mà lâu lắc vậy? Lai căиg = không nguyên bản Làm mần cái con khỉ khô = không thèm làm Làm mần dzậy coi được hông? Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích тùy theo ngữ cảnh Làm gì mà toành hoanh hết zậy Làm mướn = làm thuê Làm nư = lì lợm, làm cho lợi gan Làm um lên = làm lớn chuyện Lán cón = bảnh bao có thể do нồi xưa ra đường chải đầu tóc bóng mượt, đánh giày bóng như gương, quần áo thẳng thớm nên ra từ này Lanh chanh Lạnh xương sống Lao-cần cách dùng từ của Ông Nguyễn Văи Vĩnh có gạch nối ở giữa Láo-háo = khoảng chừng tuổi nó ʟáo háo cở tuổi tao chứ mấy Lao-tổn cách dùng từ của Ông Nguyễn Văи Vĩnh có gạch nối ở giữa Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu Lặc lìa lặc lọi = ? Lắm à nhen = nhiều, rất thường nằm ở cuối câu vd thương lắm à nhen Lăи cù mèo = lăи long lóc, té ngữa Lắc lư con lạc đà = nghiêng qua nghiêng lại Lầm lầm lì lì = không nói không rằng mặt nghiêm tỏ ý không thích Lần = tìm kiếm biết đâu mà lần = biết tìm từ chỗ nào Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây? Lấy le = khoe đồ Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai đi lẹt đẹt! Lảm gì làm cái gì mà cứ lẹt đẹt hoài vậy Leo cây; leo cây me = thất hẹn; Xong! nãy giờ chờ thấy bà, chắc thằng Tám nó cho tụi mình leo cây rồi. Lèo = thất hẹn – hứa lèo Lề mề Lên bờ xuống ruộng Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức Nghe ông nói tui muốn lên hơi lấy hơi lên rồi đó nha! Liệu = tính toán thằng Ba liệu coi đi sớm một chút kẻo bị kẹt xe thì lỡ hết chiện đó nhen! Liệu нồn = coi chừng Líp-ba-ga = mút mùa Lệ Thủy, thoải mái Lóng rày = hổm rày thời gian gần đây Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt Lộn = nhầm nói lộn nói lại Lộn xộn = làm rối Lục cá nguyệt sáu tháng. Ví dụ Nộp báo cáo sáu tháng một lần Nộp báo cáo lục cá nguyệt. Lục đục = không hòa thuận gia đình nó lục đục quài, đôi khi lại có nghĩa khác Làm gì lục đục ở sau bếp hoài vậy bây? Lụi hụi = Lụi hụi một нồi cũng tới rồi nè! Lùm xùm = rối rắm, Lung tung xà beng Lừng mặt = quen quá không còn sợ nữa Chơi với nó riết nó lừng mặt mình luôn nhen Lười chẩy thây; đại lãn; liệt = làm biếng Má = Mẹ Mả = Mồ Ma lanh, Ma le gốc Pháp malin Mã tà = cảnh ѕáт Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa Mari sến = sến cải lương Mạnh giỏi = mạnh khỏe Mát trời ông địa, tẹt ga = thoải mái Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ Mắc cười = buồn cười Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ ʟá, bởn cợt. Nhưng cũng có nghĩa nói ngầm là đồng ý nữa, thí dụ “Giữ đi, mắc dịch không hà trả lại tui mần chi?” Mắc địt = dỡ ẹt; một cách chê cái gì đó dỡ Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm Mần ăи = làm ăи Mần chi = làm gì Mậy = mày thôi nԍнᴇɴ mậy = đừng làm nữa Mé = phía nhà ổng ở xích mé bên kia kìa Mé = tỉa nhánh Mè nheo = Mèo nheo Méo xẹo, buồn hiu = thất vọng cầm bài thi nhìn điểm xong thằng Tư mặt méo xẹo, về nhà thể nào cũng bị Ba rầy Mét = mách Miệt = kèm theo để chỉ một vùng đất, địa danh Miệt Hóc Môn, Miệt dưới, Miệt vườn Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…. 10. Mình ên = một mình đi có mình ên, làm mình ên gốc K’mer Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm hài = mò Mở bum, mở ban Mở party nhấy đầm Mợi = mày ơi Mồ tổ! = câu cảm thán Một lèo, một hơi = một mạch Muỗng = Thìa, Môi Mút mùa lệ thủy = mất tiêu Mút chỉ cà tha Mừng húm Mưa thúi đất nam bộ xem thêm tháng mười “mưa thúi đất” để rõ hơn Nam Tàu Bắc Đẩu Nào giờ = từ trước tới nay Năи nỉ ỉ ôi Niềng xe = vành xe Nói nghe nè! Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm Nổ banh xác = nói ʟáo Nổ dữ dội= quăиg lựu đạи ngày xưa có chuyện hay chọi “lụ đạи” vô chợ кнủиɢ bố dân lành Nổi cơn tam bành = giận dữ Nước lên, nước xuống, nước rồng thủy triều Nước phun-tên = nước thủy cục, nước máy, gốc Pháp fontaine Ngang Tàng = bất cần đời Nԍнᴇɴ, hén, hen, nhen Nghía = ngắm Ngó = Nhìn, dòm Ngó lơ = làm lơ, nhìn chỗ khác không để ý tới ai đó Ngoại quốc = nước ngoài Ngõ đường = ngã đường ngõ ba ngõ tư Ngon bà cố = thiệt là ngon Ngộ = đẹp, lạ cái này coi ngộ hén Ngồi c нồm hỗm = ngồi co chân ….chỉ động tác co gập hai chân lại theo tư thế ngồi … Nhưng không có ghế hay vật tựa cho mông và lưng … Chợ c нồm hổm – chợ không có sạp Ngủ nghê Ngựa đực, Ngựa cái = xãnh xẹ Người Thượng = người dân tộc miền núi Nhá qua nhá lại Nhà đèn = côɴԍ ty điện lực Nhà thép = bưu điện – Đánh dây thép Nhà тнuốc GÁC = nhà тнuốc Tây bán 24/24 Nhan nhãn = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt Nhào vô kiếm ăи, ngon vô đây = thách đố dám chơi hông, ngon vô đây! Nhắc chi chuyện cũ thêm đαυ lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia Nói gì thì nói giờ nhậu cái đã Nhí nhảnh Nhiều chiện = nhiều chuyện Nhìn khó ưa quá nha= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau Nhóc, đầy nhóc = nhiều Nhột = buồn Nhữ qua nhữ lại = đưa qua đưa lại cái gì đó trước mặt ai tương tự “nhá qua nhá lại – nhá tới nhá lui” nhưng cấp độ mạnh hơn Nhựt = Nhật Òm = dễ òm, dị òm,… Oải chè đậu; quải chè đậu Ông bà bô = ba má thường những người có học vấn thì dùng từ này để nói chuyện với bạn về ba má mình Ông bà ông giải = Ông bà ông vãi bắc Ồng Cò = cảnh ѕáт Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói ông ấy nói Pê Băm-Tám đồ khui bia, khui nghe cái Bốp giống иổ ѕúиɢ P-38 Phi cơ, máy bay = tàu bay Phờ râu = mệt Qua bên bển, vô trong trõng, đi ra ngoải, Quá cỡ thợ mộc…= làm quá, Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình Quá xá = nhiều dạo này kẹt chiện quá xá! Quá xá quà xa = quá nhiều, quá đã Quắc cần câu = nhậu say hết biết đường Quăиg lựu đạи ngày xưa hay có chuyện quăиg “lựu đạи” vô chợ кнủиɢ bố dân lành Quần què = từ tục chỉ cái quần của phụ nữ ngày có kinh nguyệt, dơ Quấy = làm sai – dùng cho con nít thì lại khác, có ý là vừa quậy phá vừa khóc thằng nhóc này hay khóc quấy quá! Quê một cục Quê xệ Quề trớt = huề vốn, cũng như không Quởn = rảnh rỗi Quới nhơn = Quý nhân =/= Cô нồn các đảng Quới nhơn= Quý nhơn, quý nhân, người tốt đến giúp đỡ Ra giường drap = vải trãi giường tui không tính đưa từ này vô nhưng bây giờ họ xài từ chăи, ga , gối, nệm nghe nó kỳ cục gì đâu, đã vậy còn dịch là khăи trải giường, khăи chỉ dùng để lau, cũng không thể nào lớn như cái tấm vải trãi giường được Ra giêng = qua năm mới, qua tết Rành = thành thạo, thông thạo, biết tui нồng rành đường này nhen, tui rành nó tới “sáu câu vọng cổ”. Ráo = hết Rạp = nhà hátrạp hát, dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát dựng rạp làm đám cưới Rân trời = Rần trời, um sùm Rầu thúi ruột = Sầu thê тнảм Riết = liên tục, hoài – Mần riết = làm hoài Ro ro = nhuần nhuyễn, mới tập chạy xe honda mà nó chạy ro ro hà – nó trả bài ro ro Rốp rẽng miền Tây = làm nhanh chóng Rốt ráo miền Tây = làm nhanh chóng và có hiệu quả Rũng rỉnh = có tiền trong túi Ruột xe = xăm Rượt = chạy đuổi theo Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai! Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng Sạp = quầy hàng Sáu Bảnh Sấp nhỏ = tụi nhỏ, mấy đứa nhỏ Sến = cải lương màu mè mặt đồ gì sến quá trời dậy cha? nhạc sến lại có ý nghĩa khác không phải là nhạc cải lương. Sến нồi xưa là người làm giúp việc trong nhà. Mary sến cũng có nghỉa là lèn xèn như ng chị hai đầy tớ trong nhà. Sên xe = xích gốc pháp chain Sếp phơ = Tài xế Sợ teo bu gi sợ gần cнếт Sống lây lất qua ngày Sụm bà chè = mệt mõi, đi hết иổi Sức mấy = Sức mấy mà buồn = đâu buồn gì Sườn xe = khung xe Tả Pín Lù Hầm bà lằng gốc Quảng Đông Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ Tài lanh Tài khôn Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi Tàng tàng = bình dân Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… chuyện tầm xàm bá ʟáp = vớ vẫn Tạt qua = ghé qua Tàu hủ = đậu phụ Tầm ruồng Tầm xàm bá ʟáp Tần ngần = do dự tẩn ngẩn tần ngần Cậu Hai đứng tần ngần trước nhà cô Ba muốn gỏ cửa mà khổng dám. Tầy quầy, тùm lum tà la = bừa bãi Té gốc từ miền Trung= Ngã ngã cái ịc -chú thích anh Tuấn Khải – Mắt chú tững nó xụp thần dì mới chịu ngã cái ịc xuống gối ngủ hết biết đầu đít chỗ nào Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư Teo bu-gi = Sợ gần cнếт bugi gốc Pháp bougie Tía, Ba = Cha Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền …! Tó = lấy, bắt Tò te tí te = Nói chuyện – “Coi đó! nó xẹt qua tò te tí te với tui mấy câu thì xẹt đi mất tiêu” Tòn teng = đong đưa, đu đưa Tổ cha, thằng cнếт bầm Tốp nhỏ = nhóm người nhỏ tuổi thường chỉ có người lớn tuổi gọi như vậy “Tốp nhỏ tụi bây coi dẹp đồ chơi cho lẹ lo rữa tay rồi lên ăи cơm nhen” Tới = đến người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văи bản Tới chỉ = cuối Hôm nay chơi tới chỉ luôn! Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính Tui ưa dzụ vụ này rồi à nhen = tui thích việc này rồi trong đó tui = tôi Tui, qua = tôi Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó Tử tế = tốt bụng Tức cành hông = tức dữ lắm Tháng mười mưa thúi đất Thảy = quăиg Thắng = phanh Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với người dưới тùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ Thâm căи cố đế = người sống ở vùng nào rất lâu rồi, dân gộc Thậm thụt Thân chủ = người khách quen thường xuyên Thầy chạy Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng тùy ngữ cảnh và âm điệu của người nói Thấy gớm = thấy ghê, tởm cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà gớm” âm mà bị câm Thấy gớm = thấy ớn Thèo lẽo = mách lẽo Con nhỏ đó chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó! Thềm ba, hàng ba Thêm thắc Thí = bố thí, cho không, miễn phí, bỏ thôi thí cho nó đi! – xưa SG có nhà thương thí вệин nhân không phải trả tiền, thí ở đây không mang hàm ý xấu như bây giờ Thí cô нồn Thí dụ = ví dụ Thiếu Tá lỗ Thượng Sĩ, vì cái lon Thượng Sĩ giống Thiếu Tá nhưng có cái lỗ tròn Thiệt hôn? = thật không? Thiệt tình = cảm thán thiệt tình! nói quài mà nó hổng chịu nghe để giờ té nằm một đống Thính giả người nghe radio, đài Thọc cù lét, chọc cù lét = làm cho ai đó bị nhột Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó Thôi hén! Thơm = dứa, khóm Thúi = hôi thối, Thủng thẳng, Thủng thỉnh = từ từ Thủy cục = côɴԍ ty cấp nước Thưa rĩnh thưa rãng = lưa thưa ʟác đác Thước = 1 mét Đo cho tui chừng 2 thước vải tui may cái áo dài cho sấp nhỏ Thưởng Lãm Thưởng Ngoạn Trà = Chè Trả treo Trăm phần trăm = cạn chén- có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly là 100% Trật chìa, trật đường rầy= sai giờ giấc Hẹn cho đã rồi không ra làm trật chìa hết trơn hết trọi Trẹo Bảng họng, lẹo lưỡi = khó phát âm nói muốn trẹo bảng họng Trển = trên ấy lên trên Sài Gòn mua đi , ở trển có bán đồ nhiều lắm Trọ trẹ = giọng nói không rõ ràng Tròm trèm = cũng cở, gần tới tròm trèm 70 tuổi rồi Trời thần đất lở Trời ui ui = trời hơi tối tối Trụi lũi = nhẵn thín cạo râu trụi lũi Trừ phi = Trực thăиg = máy bay lên thẳng Tụi mình = chúng mình Uể oải = mệt mỏi, lừ đừ Um xùm Ứa gan = chướng mắt Ưng = đồng ý, thích, chịu, … Ưng ý Ướt chèm nhẹp Ướt như chuột lội miền Nam hay nói sai là ướt như chuột lột Ván ngựa =giống cái sập bằng cây mà hay gọi là đi-văиg, có ba tấm gỗ dày đặt lên 2 cặp chân, gọi là bộ ngựa Vầy = như vậy làm vầy nè = làm như vậy nè Vè xe = chắn bùn xe Vỏ xe = lốp Xa lắc xa lơ xa thiệt xa Xả ʟáng sáng về sớm = Cứ thoải mái không lo gì hết Xà ích Sãis có nghĩa là Thằng đánh xe, 1930 – không sử dụng nữa từ khi có xe hơi Xà lỏn, quần cụt = quần đùi Xà quần gốc K’mer Xài = dùng, sử dụng Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu Xe Cá = giống xe thổ mộ nhưng không có mui, dùng để chở hàng, không chở người. Xem thêm xe cá Xe ba gác = xe ba bánh dùng để chở đồ , xe ba gác máy như xe ba gác nhưng gắn thêm máy chứ không đạp Xe cam nhông = xe tải Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô Xe đò lục tỉnh Xe Honda = xe gắn máy có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy? Xe hơi = Ô tô con Xe nhà binh = xe quân đội Xe ôm Xe thổ mộ Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăи gì hết Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nԍнᴇɴ – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh Xí = hổng dám đâu/nguýt dài cảm thán khi bị chọc ghẹo Xi-cà-que đi cà nhắc Xi nhan = ra hiệu gốc từ tiếng Pháp signal Xì-tin= style Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ Xí xọn Xí cái bùm bum Xía = chen vô Xí! cứ xía dô chiện tui hoài nԍнᴇɴ! Xĩa răиg = không đủ chi phí Làm muốn chỏng mông mà hổng đủ xĩa răиg nữa Xĩa xói = châm chọt Xiết = Làm hết xiết làm không иổi Nhưng Ở một số vùng tây nam bộ Cà Mau cũng có nghĩa là Nhanh- Ví dụ ; Làm xiết xiết = Làm nhanh nhanh , Chạy xiết đi = Chạy nhanh đi. Xiên ʟá cành xiên qua cành ʟá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình gốc từ bài hát Tình anh lính cнιếɴ- Xuyên ʟá cành trăиg lên lều vải Xỏ ʟá ba que = giống như chém dè vè, tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu “đừng có xỏ ʟá ba que nhe mậy” Xỏ xiên = đâm thọt, đâm bị thóc chọc bị gạo,… ăи nói xỏ xiên Xú chiên = áo lót nữ – gốc tiếng Pháp soutien-gorge Xì líp = quần lót Xụi lơ Xưa như trái đất, нồi nẩm, cái thời ông Cố ông Sơ ông Sờ ông Sẩm = xua thiệt là xưa Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi gốc từ tựa bài hát Diễm xưa TCS Y chang, Y đúc, Y khuông, y bon = giống nhau
NGÔN NGỮ NGƯỜI SÀI GÒN. Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ "dạ" khi nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ "vâng". Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ "vâng". Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói "vâng!" là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt. Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ "dạ" vào mỗi câu nói “Mầy ăn cơm chưa ? - Dạ, chưa!"; “Mới dìa/dzề hả nhóc? - Dạ, con mới dìa !"… Cái tiếng "dạ" đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó "thương" lạ...dễ chịu mà gần gũi, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng "dạ" là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẳn hay... Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói “Từ bữa đó đến bữa nay”. Còn người Sài Gòn thì nói “Hổm nay”, “dạo này”… Người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ “ghê” phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ghê” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là “nhiều”, là “lắm”... Nói “Nhỏ đó xinh ghê!” nghĩa là khen cô bé đó xinh lắm vậy. Lại so sánh từ “hổm nay” với “hổm rày” hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ “hổm rày, miết…” là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất miền Nam rõ rệt. Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem…”Nhỏ đó xinh lắm!”, “Nhỏ đó ngoan!”…Tiếng “nhỏ” mang ý nghĩa như tiếng “cái” của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi “nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên” thì cũng như “cái Thuý, cái Uyên, cái Lý” của người Hà Nội thôi. Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu “Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề…nhìn phát bực!” Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi “Ê, nhóc lại nói nghe!” Hay gọi người bán hàng rong “Ê, cho chén chè nhiều nhiều, tiền ít coi!”… “Ê” là tiếng Sài Gòn đó, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Sài Gòn. Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường “quên” mất từ “bán”, chỉ nói là “cho chén chè, cho tô phở”… “cho” ở đây là mua đó nghen! Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này “Lấy cái tay ra coi!” “Ngon làm thử coi!” “Cho miếng coi!” “Nói nghe coi!”… “Làm thử” thì còn “coi” được, chứ “nói” thì làm sao mà “coi” cho được nè ? Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ “coi” cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy mà. Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “Mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?”. Mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à nghen. Người Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta ?” “Sao rồi ta ?” “Được hông ta ?”… Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà…hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà. Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi !”... Mà giọng Sài Gòn đã thế, cách người Sài Gòn xưng hô, gọi nhau cũng có phần mang “màu sắc” riêng. Người Sài Gòn có cái kiểu gọi “Mầy” xưng “Tao” rất “ngọt”. Một vài lần gặp nhau,nói chuyện ý hợp tâm đầu một cái là người Sài Gòn mầy tao liền. Nếu đúng là dân Sài Gòn, hiểu người Sài Gòn, yêu người Sài Gòn sẽ thấy cách xưng hô ấy chẳng những không có gì là thô mà còn rất là thân thiện và gần gũi. Mầy, tao là kiểu xưng hô hay thấy trong mối quan hệ bạn bè của người Sài Gòn. Cách xưng hô này thấy dàn trải từ đủ các mối quan hệ bạn bè; từ bạn học giữa mấy đứa nhóc chút xíu, cho đến mấy bác mấy anh lớn lớn tuổi... Hổng biết cái máu dân Sài Gòn nó chảy mạnh quá hay sao mà thấy mấy cách gọi này nó...tự nhiên và dễ nói hơn là mấy từ như "cậu cậu, tớ tớ" của miền Bắc. Nói chuyện bạn bè với nhau, thân thiết mà gọi mấy tiếng mầy mầy tao tao, thì nghe thật sướng, thật thoải mái tự nhiên, và khoan khoái làm sao ấy. Gọi thế thì mới thiệt là dân Sài Gòn. Đây là ngang hàng, ngang vai vế mà gọi nhau, chớ còn như đám nhỏ nhỏ mà gặp người lớn tuổi hơn, đáng bậc cha, chú thì khác. Khi ấy “tụi nhỏ” sẽ gọi là chú, thím, cô, dì, hay bác và xưng “con” ngọt xớt. Có vẻ như người Sài Gòn "ưa" tiếng chú, thím, dì, cô hơn; cũng như phần lớn dân miền Nam khác vậy mà. Mà có lẽ cách gọi này cũng còn tuỳ vào việc ước lượng tuổi của người đối diện. Gặp một người phụ nữ mà mình nhắm chừng tuổi nhỏ hơn mẹ mình ở nhà thì “Dì ơi dì...cho con hỏi chút...!" - còn lớn hơn thì dĩ nhiên là "Bác ơi bác..." rồi. Những tiếng mợ, thím, cậu,... cũng tuỳ vào vai vế và người đối diện mà gọi. Có người chẳng bà con thân thuộc gì, nhưng là bạn của ba mình, lại nhỏ tuổi hơn, thế là gọi là chú và vợ của chú đó cứ thế gọi luôn là thím. Gọi thì gọi thế, còn xưng thì xưng “con” chứ không phải “cháu cháu” như một số vùng khác. Cái tiếng “con” cất lên nó tạo cho người nghe cảm giác khoảng cách giữa mình với đứa nhỏ đang nói kia tự dưng… gần xịt lại. Nghe sao mà quen thuộc, và gần gũi đến lạ lùng. Tự dưng là thấy có cảm tình liền. Nói tiếp chuyện xưng-hô, người Sài Gòn có kiểu gọi thế này Ông đó = Ổng Bà đó = Bả Dì đó = Dỉ Anh đó = Ảnh Chị đó = Chỉ Cô đó = Cổ. Còn nữa Ở bên đó = Ở bển Ở trong đó = Ở trỏng Ở ngoài đó = Ở ngoải Hôm đó = Hổm. Nói chung, khi cần lược bỏ chữ "đó", người ta chuyển thanh ngang hoặc thanh huyền thành thanh hỏi. Không hiểu sao mà dấu hỏi tự nhiên cái trở nên giữ vai trò quan trọng... ngộ nghĩnh dzậy nữa. Nhưng mà kêu lên nghe hay hay đúng hông? Gọi vậy mới đúng là chất miền Nam, Sài Gòn đó nghen. Người Sài Gòn cũng có thói quen gọi các người trong họ theo... số. Như anh Hai, chị Ba, thím Tư, cô Chín, dượng Bảy, mợ Năm... Mà nếu anh chị em họ hàng đông đông, sợ gọi cùng là chị Hai, anh Ba mà hổng biết nói về ai thì dzậy nè, thêm tên người đó vào. Thành ra có cách gọi chị Hai Lý, chị Hai Uyên, anh Ba Long, anh Ba Hùng... Thêm nữa, nếu mà anh chị em cùng nhà thì tiếng "anh-chị-em" đôi khi được...giản lược mất luôn, trở thành "Hai ơi Hai, em nói nghe nè..." và "Gì dzạ Út ?"... Hoặc Có chuyện nhờ là cứ "Út ơi...con nhờ chút!" hoặc với mấy chị tôi thì "Hai ơi Hai...em nói nghe nè!". Cách xưng hô của người Sài Gòn là vậy. Nghe là thấy đặc trưng của cả một mảnh đất miền Nam sông nước. Cứ thế, không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế Thần Kinh... Cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào của sông nước miền Nam, bằng cái chơn chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ!” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương, những cảm giác xao xuyến bồi hồi khó tả... Sưu tầm Hồng Trung Van Lam facebook Sài Gòn Xưa
Hồi những năm 1970 – 1980 ở Sài Gòn thịnh hành câu nói cửa miệng dễ thương, dễ sợ… nhất là trong giới trẻ học sinh, sinh viên. Không ca ngợi bằng những tính từ như đẹp, sang trọng, quý phái… người Sài Gòn thường khen ai đó thường là phụ nữ, một việc làm nào đó là “dễ thương”. Dễ thương, là thấy có cảm tình, quý mến, dễ chịu qua dung nhan, cư xử, hành vi, ngôn ngữ. Phụ nữ ở tuổi nào, tầng lớp nào cũng có thể là người “dễ thương”. Thường nghe mấy bạn trai trò chuyện “nhỏ đó dễ thương” khi nói về cô bạn hàng xóm hay cùng lớp, mấy ông hay nói “chị đó, cô đó dễ thương” khi nói về đồng nghiệp, bạn bè… Phụ nữ thượng lưu cũng muốn được khen dễ thương, vì ngoài sự sang trọng còn là sự duyên dáng, ý nhị. Nhưng đừng tưởng khen người ta “dễ thương” là có thể “thương dễ”, tán tỉnh sàm sỡ, coi vậy chớ “thương không dễ” đâu nha. Ngược với “dễ thương” là “dễ ghét” hay “thấy ghét” nhưng có khi không phải là “ghét” thiệt! Nếu “dễ thương” là… dễ thương thiệt thì “dễ sợ” không hẳn là “sợ”, nhất là khi được các cô gái nói ra với ngữ điệu kéo dài chữ “dễ” và nhấn vào âm “s” của chữ “sợ” thì không có gì… dễ thương bằng. “Dễ sợ” là ngạc nhiên, trầm trồ, khi lại là chê trách, khi là câu trả lời vô thưởng vô phạt khi nghe câu chuyện nào đó. “Dễ sợ” là sự bày tỏ thái độ trước sự việc, hiện tượng, câu chuyện chứ ít dùng với người như một tính từ. Vậy nhưng người Sài Gòn lại hay nói ghép thành “dễ thương dễ sợ”! Đó là dễ thương lắm á, đến nỗi không chỉ bày tỏ sự cảm mến mà còn thán phục, ngưỡng mộ. Mà cũng chỉ thấy những nàng trẻ trung duyên dáng được “đánh giá” là dễ thương dễ sợ, chớ có chồng con rồi, nếu được ai khen câu này – nhất là mấy ông chồng – thì chắc là phần “dễ sợ” nhiều hơn. Lần đầu nghe thấy hai từ “dễ thương”, “dễ sợ” tôi đã kết ngay. Có lẽ ít có từ nào thể hiện sự hồn hậu của người Sài Gòn phổ biến như thế là nhẹ nhàng khen ngợi và không nặng nề chê bai… Tuy có phần “cảm tính” nhưng lịch sự, thật lòng, không “khẳng quyết” nên người được khen là “dễ thương” không bối rối hay ngượng ngùng, người hay hành vi “dễ sợ” cũng không buồn, đôi khi còn vui vui vì nhận ra sự “tán thưởng” ngầm trong đó. Ai không đồng tình cũng không cần phản bác, dễ thương hay dễ sợ chỉ hơn bình thường chút thôi, đôi khi là trong một khoảnh khắc một ngữ cảnh nhất định, đâu cần phải tranh cãi. Người Sài Gòn, người miền Tây vẫn cởi mở như thế và từ đó luôn nhận thấy xung quanh có nhiều điều “dễ thương dễ sợ”. Như nhiều người đã biết, ngôn ngữ là một trong những thành tố văn hóa quan trọng nhất vì nó là biểu hiện trực quan của thái độ, cảm xúc con người, đời sống xã hội và sắc thái văn hóa địa phương. Cùng với ngữ điệu, ngôn ngữ thể hiện sự phong phú và tinh tế của tình cảm, những mối quan hệ của con người và phần nào cả lịch sử một cộng đồng, nhất là ở những đô thị lớn. Ngày mới vô Sài Gòn, khi ra chợ tôi rất ngạc nhiên khi nghe cách chào hỏi cậu, dì, con, cháu… những xưng hô thân tộc bên mẹ chiếm ưu thế ở chợ – một xã hội thu nhỏ. Lối xưng hô này nay chỉ còn trong vài chợ nhỏ lâu đời, nơi mà người bán người mua đều quen thuộc nhau đến vài mươi năm, thậm chí còn là bà con lối xóm. Cùng với “cậu dì con cháu” là “mua giúp, mua giùm”. “Tiền trao cháo múc” vẫn coi là vui vẻ giúp nhau, quan hệ người mua người bán là dịch vụ đấy nhưng thân thiện và tình nghĩa. Không mua bán được thì “lần sau nhớ ghé mua giúp nghen” như một câu chào dễ thương. Nhà tôi trong một hẻm nhỏ ở vùng Phú Nhuận gần sân bay Tân Sơn Nhứt, xung quanh toàn biệt thự và lối xóm là những gia đình công chức, phu nhân của tướng tá quan chức và các cô chiêu cậu ấm. Người Nam có, người Bắc di cư 1954 cũng có, kín cổng cao tường ít khi gặp mặt nhưng khi nhìn thấy nhau luôn chào hỏi niềm nở. Người bán hàng rong mỗi ngày qua đây cũng thành người quen của xóm, bữa nào có thiếu dư chút đỉnh tiền bạc không sao. Đặc biệt cách trả giá của mấy dì mấy cô rất nhẹ nhàng, không chê bai hàng hóa xấu đẹp hay miệt thị người bán đắt rẻ, được giá thì mua không thì thôi. Cứ lựa hàng tính tiền, bữa nào giá cả lên xuống thì nói trước, còn cho thêm nắm hành trái ớt… Việc chi tiêu tốn kém hơn dường như làm cả người bán cũng thấy xót xa chớ không chỉ người mua, ấy là hồi những ngày khó khăn thập niên 70, 80 của thế kỷ trước. Hồi đó ra đường vẫy chiếc xích lô, bác tài không đi được thì xin lỗi mà khách cũng cám ơn. Cám ơn là câu cửa miệng của cả người bán người mua. Gặp người lạ muốn hỏi thăm thì xin lỗi trước, được việc xong là cám ơn liền. Một nụ cười đáp trả như nói “không có chi” mang lại sự vui lòng cho cả hai bên. Cám ơn xin lỗi từ mọi giọng nói Bắc Trung Nam, từ khu biệt thự sang trọng tới xóm nhà lá, từ trường học đến công sở… Cho tới giờ, dù mất đi nhiều ngôn ngữ thịnh hành hồi cuối thế kỷ trước nhưng cũng may người Sài Gòn còn giữ được thói quen “cám ơn” và “xin lỗi” – mừng nhất là thói quen này ở con nít và người trẻ. Đi ngoài đường nhắc nhau gạt chân chống, tắt đèn xinhan, cuốn sợi dây cột đồ… rồi chạy tuốt, người được nhắc vẫn nói với theo câu “cám ơn” dù mặt mũi ai cũng bịt kín mít chẳng biết xưng hô thế nào cho đúng. Hồi đó ở Sài Gòn có đám đánh lộn chửi nhau không? Có chớ! Trong hẻm, trong chợ, ở quán nhậu… Bình thường xưng hô ông tui, lúc “cao trào” thì chửi thề và “mày, tao” với nhau, khi gọi “mày tao” với người lớn tuổi hơn là hỗn hào nhất rồi. Giận mấy thì giận cũng chỉ ngang hàng “bình đẳng”, không trèo leo đòi làm “ông bà cha mẹ” ai. Chắc vậy nên oánh nhau chửi lộn xong thì cũng… thôi, không để bụng thù dai. Hồi đó ở Sài Gòn nghe giọng Sài Gòn, giọng miền Tây nhiều, giọng Bắc giọng Trung cũng không ít, nhưng tất cả đều mang âm sắc nhẹ nhàng, âm lượng vừa đủ, lịch sự. Ngữ điệu cũng vậy, dễ nghe, dường như ai đến thành phố này giọng nói cũng “lai” một chút để có thể tiếp xúc với nhau một cách thân thiện dễ dàng. Những giọng nói như vậy tiếc là Sài Gòn nay ngày càng ít đi. Khi xem những bộ phim về Sài Gòn “hồi đó” thấy ngôn ngữ trong phim như của một nơi xa lạ, hổng phải Sài Gòn như bây giờ… Ngôn ngữ bây giờ phong phú và “đáo để” hơn trước, nhiều tính từ trực diện mạnh bạo, tiếng lóng, sự ám chỉ, liên tưởng cũng nhiều, âm sắc cao hơn, tốc độ nhanh hơn và âm lượng thì hiếm nơi nào chỉ vừa đủ nghe. Người đi xa mà nghe TV hay đọc “báo mạng” thì khó hiểu, thậm chí khó chịu. Thật ra đây cũng là một quy luật của văn hóa Cộng đồng dân cư thế nào thì ngôn ngữ như thế sự phong phú, phức tạp, biến đổi dân cư quá nhanh, tâm thức và vị thế của các nhóm dân cư cũng thể hiện bằng và qua ngôn ngữ. Có cảm giác như ngôn ngữ Sài Gòn không chỉ thay đổi theo cộng đồng dân cư thành phố mà còn thay đổi do tốc độ cuộc sống thời thong thả tản bộ, thời của những chiếc xe đạp mini, xe Solex hay xe máy Honda đã thay thế bằng xe máy phân khối lớn và xe hơi, âm thanh máy quay đĩa và dàn Akai đã thay thế bằng âm thanh của Video và loa thùng karaoke “kẹo kéo”… Những tiếng nói “dễ thương” cứ bị khuất chìm dười những thanh âm “dễ sợ” của một thành phố ngày càng xô bồ nhộn nhạo… Vẫn biết cuộc đời dâu bể mà sao cứ nhớ thương hoài về Sài Gòn “dễ thương dễ sợ” ngày xưa… Tác giả Nguyễn Thị Hậu
ngôn ngữ sài gòn xưa